Xu hướng tuần làm việc 4 ngày
Khi giờ hành chính kéo dài gây mệt mỏi và không tỷ lệ thuận với năng suất lao động, nhiều quốc gia châu Á thử nghiệm làm việc 4 ngày 1 tuần.
Nhật Bản, quốc gia nổi tiếng từ lâu với văn hóa làm việc khắc nghiệt, hiện đi đầu trong xu hướng mới này tại châu Á.
Tháng 4 vừa qua, tập đoàn Hitachi thông báo áp dụng thử nghiệm 4 ngày làm việc 1 tuần cho khoảng 15.000 nhân viên, dự kiến kết thúc vào tháng 3 năm sau.
Cùng tháng, nhà phát triển trò chơi Game Freak, nổi tiếng với tựa game Pokemon, cũng cho biết đã thử nghiệm chương trình cắt giảm ngày làm việc với một số nhân viên.
Các công ty tên tuổi khác như Panasonic Holdings và NEC cũng xem xét các biện pháp này.

Tại Indonesia, công ty cho vay Alami đã giới thiệu chính sách tuần làm việc 4 ngày từ năm 2021, trong nỗ lực cải thiện sức khỏe tinh thần và năng suất lao động cho nhân viên.
Năm 2019, công ty giáo dục Eduwill trở thành đơn vị đầu tiên tại Hàn Quốc áp dụng chính sách tuần làm việc 4 ngày.
Sáng kiến của Eduwill đã thúc đẩy bà Sim Sang-jung thuộc đảng Công lý, người từng là ứng viên trong cuộc bầu cử tổng thống Hàn Quốc hồi tháng 3, coi kế hoạch làm việc 4 ngày 1 tuần là một trong những chính sách tranh cử quan trọng.
Tại Ấn Độ, theo các quy định lao động sẽ được áp dụng trong năm nay, người lao động có thể được chọn làm việc 4 ngày 1 tuần, dù tổng thời gian làm việc khoảng 48 giờ 1 tuần sẽ không đổi.
Thay đổi xu hướng thời gian làm việc hậu COVID-19
Xu hướng này xuất hiện trong bối cảnh đại dịch COVID-19 khiến nhiều công ty lẫn nhân viên suy nghĩ lại về cách thức làm việc.
Các cuộc khảo sát ở nhiều nước châu Á cho thấy tuần làm việc ngắn hơn là một trong những chính sách được người lao động mong muốn nhất.
Persol Holdings, "gã khổng lồ" ngành nhân sự Nhật Bản, gần đây đã khảo sát khoảng 1.000 nhân viên về những chính sách mà họ mong muốn công ty sẽ áp dụng.
Kết quả có tới 23,5% nhân viên, chiếm tỷ lệ lớn nhất, ủng hộ tuần làm việc 3-4 ngày.

Nỗ lực rút ngắn ngày làm cũng là một phần trong làn sóng phản ứng của người lao động với thời gian làm việc vốn đã quá dài ở châu Á.
Nhật Bản đã vật lộn với "karoshi" (tình trạng người lao động) trong nhiều thập kỷ.
Trong vòng một năm tính đến tháng 3/2021, quốc gia này ghi nhận hơn 2.800 yêu cầu bồi thường liên quan đến "karoshi", tăng 43% so với thập niên trước, theo số liệu từ chính phủ Nhật Bản.

Năm 2015, câu chuyện một nữ nhân viên 24 tuổi thuộc công ty quảng cáo Dentsu tự tử sau khi phải tăng ca quá nhiều đã làm dấy lên làn sóng phản đối kịch liệt từ dư luận Nhật Bản.
Các quốc gia láng giềng như Trung Quốc và Hàn Quốc cũng nổi tiếng về tình trạng người lao động làm việc quá sức.
Tại Trung Quốc, văn hóa làm việc "996" rất phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ.
Theo văn hóa này, nhân viên sẽ là việc từ 9h sáng đến 9h tối suốt 6 ngày/tuần.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), người Hàn Quốc làm việc trung bình 1.908 giờ năm 2020, cao nhất ở châu Á và nhiều hơn 221 giờ so với mức trung bình mà OECD đưa ra.

Báo cáo của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) năm 2021 cho thấy nhiều quốc gia ở châu Á, ngoại trừ Singapore, thua kém phương Tây về năng suất lao động.
Và cũng theo APO, năng suất lao động trung bình của các nước ASEAN thấp hơn 81% so với Mỹ.
Xu hướng thời gian làm việc tại Việt Nam
Gần đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí thông qua nghị quyết về số giờ làm thêm trong 1 năm, 1 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng chống COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Theo đó, giờ làm thêm mỗi tháng của người lao động được nâng từ 40 giờ lên tối đa 60 giờ, khống chế 300 giờ mỗi năm.

Ông Lê Đình Chi, Giám đốc Hành chính nhân sự của Dược phẩm An Thiên, cho biết Công ty chỉ tăng ca khi gặp những sự cố như hư hỏng máy móc, thời gian nhập nguyên liệu bị kéo dài do có sự thay đổi về nhà cung cấp... và thời gian tăng ca không quá 3 giờ/ngày.
Không thể không thừa nhận năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, tỉ trọng các ngành thâm dụng lao động có giá trị gia tăng thấp vẫn còn lớn.
Thực tế đó cho thấy, nhu cầu mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ là nhu cầu có thực để góp phần tăng thu nhập cho người lao động, tăng tính linh hoạt khi tổ chức làm thêm giờ và góp phần tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.
Lấy ví dụ, có thể cùng một đơn hàng, một doanh nghiệp ở quốc gia khác hoàn thành nhanh hơn một doanh nghiệp ở Việt Nam, đương nhiên nhà đầu tư sẽ chọn doanh nghiệp hoàn thành đúng tiến độ.

Và số giờ làm việc có hợp lý trong bối cảnh ngày nay, khi lực lượng lao động tiếp tục phát triển cùng với các công nghệ giúp cải thiện hiệu suất làm việc và tăng sự linh hoạt?
Mâu thuẫn là tiền đề của phát triển.
Điều quan trọng là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần tiếp thu những ý tưởng mới, qua đó giúp lực lượng lao động hưởng lợi từ các chế độ làm việc phù hợp hơn, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn.